Hiển thị các bài đăng có nhãn truyện cổ tích. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn truyện cổ tích. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

Truyện cổ tích cho bé: Sự tích mèo và chuột

0 nhận xét
Đời xưa, chuột vốn là một giống linh thiêng ở trên Trời. Trời giao cho nó giữ chìa khóa kho lúa của Trời. Nhưng chuột không phải là một loài đáng tin cẩn, nhận được giữ chìa khóa, cứ tự do đến mở kho rủ nhau vào ăn rả rích hết bao nhiêu là lúa.

Sau Trời biết, lấy làm giận lắm, mới không cho ở trên ấy nữa, mà đuổi xuống dưới hạ giới để sai giữ chìa khóa lẫm thóc của nhân gian.

Nhưng chứng nào tật ấy, chuột lại rủ nhau vào lẫm thóc của người rả rích ăn no nê. Đến nỗi người phải có câu than rằng:

“Chuột kia xưa ở nơi nào ?
Bây giờ ăn lúa nhà tao thế này ?”

Người lấy làm chua xót, mới kêu với vua Bếp. Vua Bếp liền bắt nó đem lên trả Trời và tâu rằng:

– Chuột này vốn chuột của Thiên Đình, sao Thiên Đình lại thả nó xuống hạ giới ?

Trời nói:

– Ừ, trước nó ở trên này giữ chìa khoá kho thóc cho ta. Nhưng bởi nó ăn vụng lúa của ta nhiều lắm nên ta không cho nó ở trên này, ta đuổi nó xuống hạ giới cho nó giữ lúa ở dưới ấy.

Vua Bếp tâu:

– Nó xuống dưới ấy nó lại ăn vụng lúa hại lắm. Bẩm,chúng con thiết nghĩ: lúa của Trời nhiều, lúa của người ít, của Trời nó ăn không hết chớ của người nó cứ ăn mãi, thì có ngày hết cả, người đến chết đói mất. Vậy xin bây giờ lại cho nó lên trên Trời là phải.

Trời nghe tâu, phán rằng:

– Không được. Ta đã đuổi nó đi cho xa, ta không thể cho nó lại lên đây nữa. Thôi bây giờ có một cách: Ta có một con mèo, ta cho chú đem xuống hạ giới để khi nào chuột nó ăn lúa của nhân gian thì thả mèo ra cho nó bắt chuột, rồi gầm gừ ăn chuột đi, còn khi nào nó không muốn bắt chuột, thì chú bảo con mèo cứ kêu với con chuột rằng: “Nghèo, nghèo, nghèo”, thì chuột nó cũng sợ mà nó phải bỏ đi.

Vua Bếp lạy tạ, rồi lại đem chuột và cả mèo xuống hạ giới. Rồi cứ theo như lời dạy mà làm.

Thành thử bây giờ khi nào mèo rình bắt được chuột, rồi mèo cứ “gầm gừ, gầm gừ” và khi nào không bắt được chuột thì mèo ngồi kêu: “nghèo, nghèo, nghèo, nghèo”…


sự tích mèo và chuột

Nhưng lúc ấy, mèo ngồi nghĩ lại, mới lấy làm giận vua Bếp, vì tại vua Bếp mèo mới phải xuống dương gian. Nhưng không làm gì nổi vua Bếp, mèo chỉ còn cách thỉnh thoảng vào giữa đống tro bếp để phóng uế.

Nguồn: truyenchocon.blogspot.com sưu tầm
Đọc tiếp »

Truyện cổ tích cho bé: Sự tích chó sói

0 nhận xét
Ngày xưa, sau khi Thượng đế tạo ra Trái Đất và muôn loài, ngài liền cho gọi Quỷ sứ đến và hỏi nó:

- Ngươi xem, công việc của ta có đáng tự hào không?

Quỷ sứ nói:

- Tâu Thượng đế, tác phẩm của ngài quả là toàn mĩ, nhưng vẫn còn thiếu một con vật nữa.

Thượng đế hỏi:

- Đó là con vật gì?

Quỷ sứ trả lời:

- Đó là con vật có thể canh giữ được cả cánh rừng rộng lớn. Nó có thể giữ cho cánh rừng khỏi bị chặt phá bừa bãi.

Thượng đế băn khoăn:

- Chẳng phải ta đã tính đến chuyện đó khi tạo ra gấu và các loài thú dữ rồi đó sao?

Quỷ sứ đồng ý: “ Đúng là ngài đã tính đến chuyện ấy, nhưng khi mùa đông đến, gấu và các loài thú dữ đi ngủ để tránh rét. Rừng xanh lúc ấy chẳng còn ai ngó ngang trông nom”

Thực ra Quỷ sứ muốn tạo ra con vật quái ác để hại muôn loài. Nó tâu với Thượng đế:

- Nếu Người cho phép thì thần xin tự tay mình làm ra loài vật đó ạ!

Thượng đế đồng ý:

- Được, ta cho phép.

Quỷ sứ lại nài nỉ:

- Xin Ngài hãy cho thần một câu thần chú để thần có thể tạo ra một con vật sống cho Trái Đất.

Thượng đế dặn dò:

- Khi nào làm xong con vật đó, ngươi hãy nói: “ Sống dậy và diệt trừ ma quỷ”

sự tích chó sói


Suốt đêm Quỷ sứ hì hục tạo ra một con vật theo ý muốn của nó. Một cây sào cứng hình trụ dài làm xương sống cho con vật. Một khúc gỗ to hình trụ làm đầu. Quỷ sứ lại lấy một cục gạch hình khối chữ nhật làm lưng, cây dương xỉ làm đuôi, chân là bốn khúc cây nhỏ hình trụ, trái tim của con vật là một hòn đá cuội tròn xoe như khối hình cầu, còn lông phủ trên mình con vật làm từ rong rêu. Hai con mắt được gắn từ hai hòn than hồng cũng là hình cầu, còn răng và móng vuốt thì làm từ đinh sắt.

Khi tạo xong con vật, Quỷ sứ vui mừng đặt tên cho nó là chó sói. Khi đọc câu thần chú mà Thượng đế ban cho, Quỷ sứ đã cố tình đọc sai là: “ Hãy sống dậy và diệt trừ Thượng đế”

Quỷ sứ lập đi lập lại câu thần chú láo toét của nó cả chục lần mà con sói vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng, bực mình quá nó gào lên với con sói:

- Sói! Hãy sống dậy mà diệt trừ Thượng đế!

Ý đồ đen tối của Quỷ sứ vẫn không được thực hiện, nó đành chạy thật xa con sói và nói: “ Chó sói hãy sống dậy…” rồi ngừng lại, Quỷ sứ thì thào: “ và diệt trừ ma quỷ”

Lập tức cho Sói động đậy và trở thành con vật sống. Nó lao như tên bắn đuổi theo Quỷ sứ rồi nhanh chóng xé xác kẻ đã có ý đồ xấu xa khi tạo ra nó.

Cho tới tận ngày nay, chó sói vẫn còn truy đuổi loài quỷ sứ độc ác.

Nguồn: truyenchocon.blogspot.com sưu tầm
Đọc tiếp »

Truyện cổ tích cho bé: Sự tích con muỗi

0 nhận xét
Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ đã từng ăn thề hẹn không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết đi thì người kia sẽ chết theo để xuống âm ty cho có bạn.

Sau đó không bao lâu, người vợ trẻ tự nhiên bị chết mang đi một cách đột ngột. Không ai có thẻ tả được hết tình cảnh đau thương của người chồng. Anh chàng đã mấy lần toan tự tử, nhưng bị người nhà ngăn trở và canh phòng ráo riết. Hôm sắp sửa cất đám bỗng có một đạo sĩ đến bày cho chàng phép cải tử hoàn sinh mà theo lời ông ta, đã từng có nhiều người dùng rất ứng nghiệm. Phép của ông ta chẳng có gì khó, chỉ cần người sống gan dạ và kiên trì một chút là được. Nghĩa là người sống mỗi ngày ba lần ôm ấp và truyền hơi ấm của mình vào cho tử thi. Làm luôn như thế không nghỉ ngày nào thì chỉ trong khoảng ba tháng mười ngày là người chết sẽ sống lại.

Người chồng cảm ơn đạo sĩ và làm đúng như lời dặn, hi vọng đưa người yêu trở lại cõi thế. Ngày ngày chàng ôm ấp vợ, truyền sức nóng, hơi thở của mình vào cái xác đã lạnh toát.

Nhưng sau đó ba ngày, mùi thối của tử thi bay ra khắp xóm làm cho mọi người không chịu được. Họ kéo nhau đến nhà bắt chàng phải chôn lập tức.

Bất đắc dĩ, người chồng nhờ xóm giềng chặt nứa làm giúp một cái bè để mình đưa xác vợ đi một nơi khác. Nhiều người vui lòng giúp anh chàng trong việc này. Chỉ trong nửa ngày, hắn đã chở xác người yêu đi biệt.

Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi. Người chồng vẫn ngày ngày ấp ủ vợ không thôi. Cái tử thi đó trông vẫn như người nằm ngủ. Lòng anh chàng tràn trề hy vọng. Đến một nơi kia, hắn cắm bè lại kề một bãi cỏ rộng, lên bộ nấu ăn.

 
sự tích con muỗi

Tình cờ trong khi đi nhặt củi chàng ta gặp một cụ già. Nhìn thấy ông cụ chống gậy đi một mình giữa cảnh trời nước hoang vu, lại râu tóc trắng xóa, hình dung không có gì là lam lũ, chàng trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên. Hắn đang suy nghĩ thì thoáng cái ông cụ đã đứng trước mặt. Hiểu ngay đó là bậc Tiên Phật, hắn vội phục xuống chân cụ già rồi kể lể sự tình, cuối cùng không quên cầu khẩn ông cụ sinh phúc giúp cho vợ mình sống lại. Cụ già đó chính là đức Phật, thấy anh chàng nài nỉ hết sức, bèn thương tình, đi theo xuống bè, bảo hắn chích máu ngón tay nhỏ ba giọt vào miệng vợ. Tự nhiên người đàn bà mấp máy môi rồi từ từ ngồi dậy như vừa tỉnh một giấc mơ. Trước khi ra về đức Phật có hỏi người vợ:

- Anh chàng này cho vay ba giọt máu để ngươi được hồi sinh. Vậy nhà người có yêu anh ta chăng?

Trước câu thề thốt chắc nịch của người đàn bà, đức Phật bảo:

- Không can gì. Nếu không yêu nữa thì chỉ việc trả lại ba giọt máu cho anh ta là đủ!

Thấy bọn họ nóng lòng muốn trở về quê hương, đức Phật gọi một con cá sấu khổng lồ từ vực sâu lên bảo chở họ đi.

Cá sấu vượt sông được nửa ngày đường thì bụng đã đói. Nó bảo hai vợ chồng lên bộ nghỉ ngơi để cho nó đi tìm cái ăn. Hai vợ chồng dắt nhau vào quán cơm. Trong quán hôm đó có một người khách thương sang trọng. Hắn ta thấy nhan sắc người vợ diễm lệ ít ai sánh kịp thì bỗng nảy tà dâm, mưu toan chiếm đoạt. Hắn lân la lại gần, đưa các mẫu hàng tơ lụa và đồ trang sức ra vờ chào khách, kỳ thực là để tán tỉnh người đàn bà đẹp. Hắn nói trong thuyền hắn đậu ở gần đấy còn có nhiều món hàng nữa rất quý và rẻ, muốn mời họ xuống xem.

Nhưng người chồng thì chẳng thiết một tý nào. Cơm nước xong, bỏ mặc người khách thương, dắt vợ ra bến vắng, ở chỗ hẹn với cá sấu, ngồi đợi. Họ ngồi dưới bóng cây trò chuyện một chốc rồi vì mệt quá, ngủ quên lúc nào không biết. Họ cũng chẳng ngờ sau lưng họ, người khách thương kia vẫn theo hút không rời. Khi thấy hai người nằm ngủ, hắn đi nhẹ đến thức riêng người vợ dậy, mời nàng xuống thuyền đậu kề đó để hắn biếu một món trang sức; - "Thuyền của tôi chỉ cách đây mươi bước. Bà không phải đợi lâu đâu!". Nghe nói thế, lòng người đàn bà bỗng thấy lay chuyển. Nàng đứng lên, đi theo người khách thương xuống thuyền. Chỉ trong nháy mắt, theo ám hiệu của chủ, bọn thủy thủ chiếc thuyền buôn nhổ neo và giong buồm cho thuyền chạy mất.

Lại nói chuyện cá sấu lúc ngoi lên chỗ hẹn thì thấy chỉ có một mình người chồng, bấy giờ vẫn đang ngủ say. Cá sấu thức chàng dậy hỏi chuyện. Anh ta ngơ ngác không hiểu thế nào. Một mất mười ngờ, hắn đổ tội cho cá sấu đã ăn thịt mất vợ. Để giải mối ngờ, cá sấu mới bảo hắn kiếm cây luồn qua miệng mình, khua trong dạ dày xem thử cho biết. Anh chàng làm theo, chỉ thấy trong bụng cá sấu toàn là xương cá và đá cuội, mới biết mình ngờ sai. Tìm khắp mọi nơi chẳng thấy vợ, hắn trở về bến, ôm đầu kêu khóc rất thảm thiết. Cá sấu thương tình bèn bảo hắn cưỡi lên lưng rồi phóng đi, đuổi theo những chiếc thuyền vừa qua lại để dò tìm tung tích. Sau mấy lần dò hỏi, người ta cho biết một chiếc thuyền buôn vừa đi qua, trong đó có một người đàn bà trẻ và đẹp. Họ tả nét mặt và hình dạng thì đúng là vợ chàng. Cá sấu bèn cố công đuổi riết.
Khi nhìn thấy vợ ngồi trong thuyền khách thương, người chồng nói với vào:

- Nàng cứ nhảy ra đây... Tôi không thể sống xa nàng được... Tôi sẽ làm cho nàng sung sướng...

Nhưng người vợ trả lời chồng:

- Chàng về đi! Em đành phụ chàng. Chàng tha thứ cho em vậy.

Rồi đưa cho chồng một gói vàng:

- Chàng hãy nhận lấy vật này và coi như em đã chết từ hôm nào rồi.

Vừa bực tức vừa thất vọng, chồng ném gói vàng xuống nước rồi nhờ cá sấu đưa mình trở lại tìm đức Phật. Khi đức Phật gặp bọn họ, liền giục cá sấu hối hả rượt theo chiếc thuyền khách thương để cho anh chàng thất tình đòi lại ba giọt máu của mình.

Lại nói chuyện người đàn bà sau khi chích máu ở tay để lấy ra ba giọt trả nợ cho chồng thì ngã vật xuống chết ngay. Người khách thương hết sức chữa chạy nhưng vô hiệu. Rồi sau đó hắn ném xác nàng xuống biển. Nhưng do phép màu của đức Phật, người đàn bà ấy hóa thành con muỗi. Vì thiếu máu, nên lúc nào muỗi cũng lén lút đi chích trộm của mỗi người một tý để sống

Nguồn: truyenchocon.blogspot.com sưu tầm

Đọc tiếp »

Truyện cổ tích cho bé: Sự tích con hổ

0 nhận xét
Ngày xưa có một gia đình rất đông con, quanh năm vất vả với nương rẫy. Trồng lúa, tỉa ngô hàng năm cũng không đủ cơm ăn, đến nỗi ăn rau rừng không kịp mọc, ăn măng rừng đến nỗi không kịp nhú khỏi mặt đất, phát rẫy to sáu bảy quả đồi cũng không đủ lúa ngô nuôi con ăn, đến nỗi không còn lúa giống.

Một hôm người cha lên rừng thăm bẫy, đến chỗ đặt bẫy, ông thấy cây cối ngả nghiêng, đất đá xới tung lên như một vũng nước trâu tắm. Ông quan sát kỹ nhưng chẳng thấy con thú nào cả, ông nhìn ngược nhìn xuôi mới phát hiện là cần bẫy của mình bị gẫy, ông lần theo dấu vết con thú kéo cần bẫy đi. Từ đồi này qua đồi nọ, từ suối này qua suối khác, ông đã đi hết cả ngày rồi nhưng tìm vẫn chưa thấy. Bụng đã đói, ông mệt lả vác cây giáo cũng không nổi. Nhưng ông vẫn kiên quyết phải lần theo bằng được con thú này.


sự tích con hổ

Ông ta lần theo dấu vết tới một nơi rừng sâu, um tùm cây lá thì tự nhiên dấu vết không còn thấy nữa. Ông ta lùng sục khắp khu rừng đó, tới cạnh một trảng cỏ chỉ bằng cái rẫy nhỏ thôi. Giữa trảng cỏ có một bụi lúa dại đang chín vàng ươm như lúa mình trồng ngoài rẫy, đếm lên đếm xuống, đếm tới đếm lui chỉ có 7 bụi. Ông ta vội vàng lấy túi đeo của mình tuốt hết 7 bụi lúa vừa đầy túi đeo, ông vội vã đi về.

Đeo túi lúa đi về, nửa mừng vì có thêm một túi lúa giống, nửa lo âu suy nghĩ trong đầu, con thú dính bẫy của mình là con gì. Trên đường về ông bốc một nắm lúa, cắn từng hạt bỏ vỏ nhai cho đỡ đói bụng. Ông ta vừa lững thững đi về vừa nhai hạt lúa, về tới nhà thì đêm đã khuya, vợ con ông đã đi ngủ rồi nhưng bếp lửa vẫn còn mờ mờ sáng, trước khi đi ngủ, ông ta treo túi lúa ở cột nhà và sau đó ông đi nằm cạnh vợ. Trong đêm tối bếp lửa mập mờ, bỗng dưng vợ ông la hét và run sợ vì bà ta nhìn thấy thân hình ông biến dạng thành con vật lạ lùng. Ông ta giật mình đứng dậy thổi bếp lửa cho sáng, lửa sáng lên thì bà ta thấy ông vẫn là hình người. Cứ như thế qua một đêm, đến sáng hôm sau người vợ hỏi chồng:

- Hôm qua ông đi thăm bẫy về khuya, lúc ông nằm cạnh tôi, lửa bếp mờ mờ sáng, tôi thấy thân hình người ông kỳ lạ quá. Nó rằn ri đốm trắng đốm đen, không biết giống cái gì, tôi sợ quá ông à.

Ông chồng trả lời:

Sao bà nói năng lạ kỳ thế, mọi khi bà có như vậy đâu hay là bà mơ, hay là bà có ốm đau gì không, bà bị quỷ thần nhập vào không? Bà vợ chưa biết đầu đuôi câu chuyện nên bỏ qua chuyện kỳ lạ.

Một hôm, trong lúc người chồng đi vắng, người vợ vô tình đụng cái nia vào túi lúa dại kia, làm đổ túi lúa, bà ta lượm từng hạt bỏ lại vào túi, tưởng rằng ông ta đã xin lúa hàng xóm về làm giống. Theo thói quen, bà ta bóc vài hạt lên nhai.

Đêm hôm đó, trong lúc đang ngủ - bếp lửa mờ mờ lúc sáng lúc mờ, chồng lại nhìn vợ cũng giống như lời vợ nói với mình, ông ta hốt hoảng và chợt nhớ hôm đó ông đi thăm bẫy về có nhai hạt lúa dại kia mới bị như thế. Ông trầm ngâm suy nghĩ và nói với vợ:

Thôi ta đi ngủ đi, đừng bận tâm gì, nhưng người vợ vẫn chưa biết chuyện.

Ngày hôm sau, người chồng rất lo âu vì tận mắt mình đã nhìn thấy vợ cũng bị như mình nên mới nói với vợ sự thật về lúa dại từ trong rừng mang về, và để xem thửnhư thế nào, có đúng thật là như thế không, ông chồng bàn với vợ.

- Này bà ơi! Hay là ta cho con mỗi đứa một ít cho tụi nó ăn thử xem nó có thật như vậy không. Nếu thật vì lúa dại thì dù sao bà và tôi cũng đã ăn rồi, còn con cái thì chưa. Mà lỡ không cho tụi nó ăn thì chỉ có hai vợ chồng mình bị thì tụi nó bơ vơ không cha không mẹ, không có ai nuôi nấng tụi nó. Nếu cho tụi nó ăn như mình thì tụi nó cũng giống như mình thôi. Thế là hai vợ chồng đồng ý với nhau, để sáng mai rủ chúng nó lên rẫy rồi cho từng đứa một ăn. Và nói dối tụi nó nhà mình đi tỉa lúa.

Hôm sau, sáng sớm tinh mơ, người cha gọi từng đứa con mình dậy sớm cùng lên rẫy. Nghe cha mẹ nói là đi tỉa lúa, tất cả các con đều nghe theo, người thì cây chọc lỗ, người thì chuẩn bị cái rổ đựng lúa hớn hở cả nhà kéo nhau lên rẫy.

Đến rẫy, người cha nói với các con:

- Hôm nay, ta tỉa lúa, các con bỏ hạt lúa trong lỗ đừng bỏ nhiều nhé, chỉ bỏ từ một đến hai hạt thôi vì lúa này giống tốt lắm. Nếu ta bỏ nhiều quá thì không đủ tỉa hết rẫy mình đâu. Nếu thừa ta sẽ mang về ăn. Nghe lời người cha, tất cả các con đều làm theo lời cha dặn. Đến trưa, cả nhà tỉa xong, số lúa vẫn còn thừa. Trong giờ nghỉ sau khi tỉa xong, người cha chia cho từng đứa, mỗi đứa một nắm nhỏ để ăn, nghe theo cha dặn, các con răm rắp làm theo. Cha mẹ cũng ăn, mọi người cùng ăn. Thế là cả nhà đều ăn. Cả nhà ăn vào thấy ngon, ai cũng khen ngon và thơm. Về tới nhà, sau bữa cơm chiều, cả nhà họ vẫn thấy bình thường.

Đến sáng hôm sau, lúc tỉnh dậy, cả nhà nhìn nhau, ai cũng hóa thành con vật kỳ lạ. Người cha thì hóa thành con hổ đực to nhất, còn mẹ thì hóa thành hổ cái, con trai lớn thì hóa thành con cọp, con beo, con nhỏ nhất thì hóa thành con báo. Vậy là cả nhà ăn lúa dại rừng đã biến thành loài thú. Họ rú ầm ĩ trong nhà, chạy náo loạn ngoài sân. Dân làng trong bon nhìn thấy lạ, ai cũng sợ hãi, hoang mang, người cầm cây, người cầm sà gạc, người giương cung tên, người cầm chày giã gạo đuổi họ ra khỏi làng, tới tận rừng sâu.

Và từ đó, cả nhà cọp, beo và báo này không còn là người nữa. Họ đã thành thú vật hung dữ trong rừng sâu, cứ gầm rú trong rừng và từng ngày đuổi bắt những thú vật hiền lành, nhỏ thân để làm mồi cho chúng. Còn lúa dại kia đã tỉa rồi nhưng chờ bao nhiêu ngày tháng vẫn không mọc trên đất mà họ đã tỉa.

Nguồn: truyenchocon.blogspot.com sưu tầm

Đọc tiếp »
 

Đọc truyện cho con Copyright 2008 All Rights Reserved Baby Blog Designed by Ipiet | All Image Presented by Tadpole's Notez